Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

BÀI 3 : ĐÀ NẴNG TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP ( 1919 - 1954 ) Phần 1 , 2

1 . Đà Nẵng trong bước chuyển lớn của phong trào giải phóng dân tộc ( 1919- 1930 )


Từ sau thắng lợi trong cuộc chiến đấu chặn đứng cuộc tiến công xâm lược của liên quân Pháp và Tây Ban Nha ( 1858 - 1860 ) , triều đình nhà Nguyễn càng thấy được vai trò quan trọng mang tầm chiến lược của Đà Nẵng nên tăng cường lực lượng phòng thủ ở phía nam kinh đô Huế. Vua Hàm Nghi đã tăng cường củng cố sơn phòng Quảng Nam, tích trữ gạo muối, vàng bạc để chuẩn bị cho một kế hoạch chống Pháp lâu dài.

Tháng 7 - 1885, sau sự biến thất thủ kinh đô, hưởng ứng chiếu Cần vương, các " thân hào nhân sĩ ở Quảng Nam kết nhau làm Nghĩa hội " tập hợp lực lượng chiến đấu chống thực dân Pháp. Một trong những chiến thắng quan trọng của Nghĩa hội là trận tấn công vào đội quân xây dựng con đường chiến lược từ Huế qua đèo Hải Vân tới Đà Nẵng.

Năm 1904, ở Nghi An ( Phước Tường ), Thái Phiên đã tổ chức cuộc đấu tranh chống việc cướp đất lập đồn điền của nhân viên một sở buôn của Pháp. Một mặt nhân dân sở tại làm đơn kiện chính quyền thực dân, mặt khác tổ chức cuộc đấu tranh quyết liệt trên thực địa. Vụ tranh chấp kéo dài đến 3 năm và buộc thực dân phải trả lại đất cho dân.

Năm 1916, diễn ra cuộc khởi nghĩa do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo, có sự tham gia của vua Duy Tân với tư cách là người lãnh đạo tối cao. Theo kế hoạch, những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa sẽ vận động hơn một nghìn lính mới tuyển mộ đang tập trung tại Đà Nẵng để chuẩn bị đưa sang tham chiến ở châu Âu tham gia cuộc nổi dậy. Bên cạnh đó, Đà Nẵng là một địa điểm trọng yếu cần phải chiếm giữ để làm cửa ngõ liên hệ với lực lượng của Đức ( đối thủ của Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất ). Cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại, nghĩa quân ở Quảng Nam bị đàn áp ; còn ở Đà Nẵng cũng như nhiều nơi khác, cuộc nổi dậy đã bị dập tắt.
     Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam có nhiều biến chuyển quan trọng. Trên phạm phi cả nược nhiều tổ chức chính trị ra đời.

          Ở Đà Nẵng, dưới hình thức phong trào dùng hàng nội hóa, đọc sách báo chính trị, lập hội ái hữu, hoạt động thể thao..., các lực lượng xã hội cũng bắt đầu được tập hợp.

      Tháng 9 - 1926, một số trí thức yêu nước đã nhất trí sẽ xin phép thành lập một tổ chức lấy tên là Việt Nam Tấn bộ Dân hội ( Party Progressite Annamite ) do Phan Bội Châu làm hội trưởng, đặt trụ sở tại Đà Nẵng nhưng chủ trương nói trên đã bị Toàn quyền Đông Dương bác bỏ.

      Tháng 9 - 1927, chi bộ đầu tiên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Đà Nẵng được thành lập do Đỗ Quang Nam Bí thư. Một nhóm khác do Nguyễn Tường đứng đầu cũng được thành lập, hướng phát triển vào các thành viên Hội Ái hữu xe và các tầng lớp lao động trong các xí nghiệp và công sở.

Nhà số 52 Trần Bình Trọng (Đà Nẵng) – nơi hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1927 – 1929) ( Nguồn : Bảo tàng Đà Nẵng, Đà Nẵng - di tích và thắng cảnh, NXB Đà Nẵng, 2009, tr.72)
      Cùng với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức Tân Việt cũng được hình thành. Mùa hè 1928, Tân Việt hoạt động mạnh mẽ tại Đà Nẵng với việc mở hiệu sách ở trung tâm thành phố ( nay là đường Phan Châu Trinh ), chuyên bán sách báo tiến bộ của Quan Hải tùng thư

      Tháng 10 - 1929, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản đảng được thành lập tại Hội An. Trên đường phố ở Đà Nẵng xuất hiện nhiều truyền đơn kêu gọi giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để thành lập Đảng Cộng sản. Cuối năm đó, Thị ủy Đảng Cộng sản ở Đà Nẵng được thành lập do Nguyễn Thiều làm Bí thư.

      Đến tháng 2 - 1930, các hội viên Tân Việt ở Đà Nẵng chuyển sang gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 28-03-1930, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam ra thông cáo thành lập Đảng bộ, trong đó nêu rõ : " Các đồng chí trong Chi bộ An Nam cộng sản đảng và Chi bộ Tân Việt cách mạng đảng ở Tourane từ nay được coi như là chi bộ của Tỉnh ủy Lâm thời Quảng Nam, cấm mọi hoạt động biệt phái..." ( Tài liệu Ban nghiên cứu Lịch Sử Đảng Quảng Nam - Đà Nẵng ).

       Sự thống nhất về tổ chức và trưởng thành về lực lượng của Đảng là chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Đà Nẵng trong những giai đoạn đầy thử thách trước khi đi tới thắng lợi hoàn toàn.

2. Đà Nẵng trong cuộc vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương xác định nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, tập hợp và huy động mọi lực lượng dân tộc sẵn sàng khởi nghĩa dành chính quyền khi thời cơ đến

      Ngày 28 - 7 - 1941, quân Nhật đổ bộ lên Đà Nẵng, tu sửa sân bay, bến cảng, chuẩn bị cho những hoạt động quân sự mới của chúng ở Đông Dương
  
      Đầu năm 1942, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam ra " thông báo khẩn cấp " vạch rõ nhiệm vụ cấp bách lúc này là " chuẩn bị đủ lực lượng chính trị, kinh tế, quân sự và phương pháp để đánh đổ kẻ thù Pháp và Nhật cùng bọn Việt gian..."

     Tháng 3 - 1945, sau khi đảo chính lật đổ thực dân Pháp trên toàn Đông Dương, phát xít Nhật đưa Tôn Thất Gián lên làm Tỉnh trưởng Quảng Nam và Nguyễn Khoa PHong làm đốc lí Đà Nẵng, nhanh chóng tổ chức bộ máy hành chính, quân sự và các tổ chức đoàn thể xã hội thân Nhật.

     Tháng 5 - 1945, Việt Minh tỉnh Quảng Nam với mật danh là Vụ Quang được thành lập. Tháng 6 - 1945, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được triệu tập tại Thọ Khương  đề ra chủ trương đẩy mạnh tuyên truyền, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các đội du kích vũ trang và quyết định tăng cường Huỳnh Ngọc Huệ, Tỉnh ủy viên, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng lực lượng trong thành phố.

     Ngày 14 - 8 - 1945, Tỉnh ủy Quảng Nam triệu tập hội nghị mở rộng tại Tam Kì. Căn cứ vào chỉ thị của Trung ương ngày 12 - 3 - 1945, Tỉnh ủy quyết định phát động khởi nghĩa trong toàn tỉnh. Quyết định đúng đắn này thúc đẩy các địa phương nhanh chóng nổi dậy khởi nghĩa dành chính quyền.

    Ngày 18 - 8 - 1945, quần chúng cách mạng làm chủ Hội An, chiếm dinh Tỉnh trưởng. Cùng ngày, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng Bình, Tam Kì và sau đó một ngày là Tiên Phước khởi nghĩa thành công, chính quyền về tay nhân dân.

     Ngày 22 - 8 - 1945, lực lượng cách mạng đã làm chủ huyện lị ở Hòa Vang. Thành phố Đà Nẵng, nơi lực lượng phát xít Nhật cũng như tàn quân Pháp tập trung đông nhất lúc này, là địa bàn cuối cùng của Quảng Nam còn nằm trong tay giặc.

     Ở Đà Nẵng, vào lúc 8 giờ sáng ngày 26 - 8 - 1945, tiếng còi tầm thành phố phát ra như một hiệu lệnh cho các lực lượng cách mạng tiến vào trung tâm Đà Nẵng, treo cờ, giăng biểu ngữ, tổ chức mít tinh công bố lệnh khởi nghĩa, tuyên bố thủ tiêu bộ máy cai trị của chế độ cũ. Các công sở được các lực lượng đại diện chính quyền cách mạng tiếp quản. Đến 9 giờ sáng, cờ đỏ sao vàng được treo khắp thành phố.


Ban vận động khởi nghĩa dành chính quyền ở Quảng Nam - Đà Nẵng ( 8 - 1945 ) ( Nguồn : Bảo tàng Đà Nẵng )



    Khởi nghĩa dành chính quyền ở Đà Nẵng ( 8 - 1945 ) ( Nguồn : Bảo tàng Đà Nẵng )
     Tại Tòa Đốc lí , ông Lê Văn Hiến nhân danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố tiếp nhận việc đại diện chính quyền bù nhìn trao lại chính quyền cho cách mạng. Lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên trên cột cờ Tòa Đốc lí ; đây là thời điểm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam đã hoàn thành cuộc nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Trong những năm tháng cách mạng sôi động này, tỉnh Quảng Nam được mang tên của Trần Cao Vân và thành phố Đà Nẵng được mang tên của Thái Phiên, là biểu hiện của niềm tự hào về truyền thống cách mạng kiên cường trong sự nghiệp giành độc lập, tự do mà hai vị liệt sĩ của cuộc khởi nghĩa năm 1916 là những tấm gương tiêu biểu.