3. Đà Nẵng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Vào cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam đã thay đổi, những thắng lợi mà chúng ta giành được đã phản ảnh thế và lực của ta đã mạnh hơn hẳn địch. Đây là nhân tố chủ yếu đưa đến việc khẳng định thời cơ thuận lợi để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Khi mặt trận Tây Nguyên nổ súng tiến công địch thì Trị Thiên và Khu 5 được xác định là hướng chiến lược phối hợp quan trọng : rừng núi, đồng bằng và đô thị, có hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng.
Giữa lúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta đang giành được nhiều thắng lợi ở Tây Nguyên, ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị và Quân uy Trung ương chỉ thị cho Khu 5 đẩy mạnh tiến công và nổi dậy với tinh thần khẩn trương và mạnh bạo, nhanh chóng cắt đứt Quốc lộ 1, đoạn giữa Đà Nẵng và Tam Kì, tiêu diệt Sư đoàn 2 của quân đội Sài Gòn, không cho chúng co cụm về Đà Nẵng và chuẩn bị tích cực, khẩn trương cho cuộc tiến công Đà Nẵng.
Trong khi Đảng bộ và nhân dân Quảng Đà đang xúc tiến việc chuẩn bị đón thời cơ tổng tiến công thì ngày 24-3 Tam Kì được giải phóng ; ngày 25-3 ta chiếm thị xã Quảng Ngãi và ngày 25-3 thành phố Huế cũng được giải phóng. Đà Nẵng đã bị cô lập hoàn toàn. Các lực lượng bộ đội chủ lực từ ba phía Bắc, Tây và Nam được lệnh chuẩn bị tiến về Đà Nẵng.
Ngày 26-3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy Mặt trận Quảng Đà ( mật danh 475 ) do Trung tướng Lê Trọng Tấn - Tổng Tham mưu phó làm Tư lệnh và Thượng tướng Chu Huy Mân - Tư lệnh Quân khu 5 - làm Chính ủy để trực tiếp lãnh đạo chỉ huy Quân đoàn 2 và quân dân Khu 5 đánh chiếm Đà Nẵng.
Tối ngày 27-3, Võ Chí Công cùng các lãnh đạo trong Khu ủy Khu 5 đã làm việc với Đặc khu ủy Quảng Đà, trao đổi cụ thể về phương án giải phóng thành phố, khẳng định phải giải phóng Đà Nẵng bằng hai lực lượng tiến công quân sự và nổi dậy quần chúng, chậm nhất là ngày 3-4-1975 phải hoàn thành giải phóng thành phố.
5 giờ sáng ngày 28-3-1975, pháo binh ta nổ súng bắn vào Bà Rén, Vĩnh Điện, Hòn Bằng và đến 8 giờ bắn khống chế sân bay và hải cảng, mở đầu cho chiến dịch giải phóng Đà Nẵng. Các lực lượng bộ binh và thiết giáp bắt đầu tiến công các huyện thị vùng ven thành phố.
Sáng ngày 29-3, được sự đồng ý của Võ Chí Công và Chu Huy Mân, Thường vụ Đặc khu ủy và Ban chỉ đạo tiền phương Quảng Đà quyết định tổng khởi nghĩa và tiến công ngày trong ngày này, sớm một ngày so với dự kiến ban đầu, dùng lực lượng địa phương và quần chúng nổi dậy khởi nghĩa để phối hợp với quân chủ lực từ bên ngoài đánh vào giải phóng thành phố.
Các lực lượng bộ đội chủ lực được lệnh bỏ qua các mục tiêu bên ngoài, bằng mọi cách cơ động, tiến nhanh vào thành phố. Bên trong, Trung đoàn 96 bộ đội đặc công cùng Tiểu đoàn 491, lực lượng biệt động Lê Độ tiến vào chiếm lĩnh Tòa Thị chính, quân vụ thị trấn, đài phát thanh. Ở phía Đông, Tiểu đoàn 97 tiến đánh căn cứ Nước Mặn, Quận III Đà Nẵng, cắt đứt đường rút quân của địch ra cảng Sơn Trà.
![]() |
Tòa Thị chính Đà Nẵng ngày 29 - 03 - 1975 ( Nguồn : baodanang.vn ) |
Trong thành phố, rạng sáng 29-3-1975, Ủy ban khởi nghĩa của các quận, khu phố, khóm và các đơn vị phát động quần chúng xuống đường chiếm lĩnh các mục tiêu đã được phân công, làm chủ thành phố.
Phối hợp với lực lượng nổi dậy của quần chúng, đến chiều 29-3, bộ đội chủ lực đã vượt qua cầu Trình Minh Thế ( nay là cầu Trần Thị Lý ), tiến vào chiếm lĩnh căn cứ Sơn Trà.
![]() |
Mít tinh mừng thành phố được giải phóng ( Nguồn : baodanang.vn ) |
Quân chủ lực từ các ngả tiến về Đà Nẵng không gặp sự kháng cự nào đáng kể. Một bộ phận bộ đội được các xe tải từ thành phố chạy ra đón vào. Đến 15 giờ chiều 29-3, tiếng súng cơ bản chấm dứt. Cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Tòa Thị Chính, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của căn cứ quân sự lớn nhất miền Trung.
Chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng đã góp phần to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho Chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngay sau khi giải phóng, ngày 30-3-1975, Thường vụ Đặc khu ủy đã họp bàn những công việc cụ thể của thành phố. Ủy ban quân quản của thành phố và các cấp được thành lập. Chính quyên cách mạng có nhiệm vụ ổn định trật tự, an ninh, giải quyết công ăn việc làm, ổn định đời sống nhân dân, xây dựng chính quyền cách mạng, phục vụ giải phóng Sài Gòn và các phần đất còn lại ở miền Nam
4. Đà Nẵng từ năm 1975 đến nay
Năm 1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng bắt tay vào khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh. Mặc dù còn lắm khó khăn nhưng công cuộc phục hồi và phát triển thành phố đã đạt được nhiều thành quả, nhất là thời kì đổi mới, sau 1986.
Từ năm 1997, khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, Đà Nẵng đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng " dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp ". Bước đầu định hình được một số ngành, sản phẩm có gia tăng và hàm lượng công nghệ cao. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện, môi trường đầu tư thông thoáng. Hoạt động đối ngoại mở rộng, vị thế thành phố ngày càng nâng cao. Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển tăng cao hơn trước. Kết cấu hạ tầng king tế - xã hội và đô thị được tập trung đầu tư.
Mục tiêu tổng quát xây dựng Đà Nẵng trong thời kì mới là " Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế, xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ ; là thành phố cảng biển. đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế ; trung tâm bưu chính viễn thông và tài chính, ngân hàng ; một trong những trung tâm văn hóa, thể thao, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ của miền Trung ; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng an ninh của khu vực miền Trung và cả nước ".