Thứ Ba, 13 tháng 12, 2016

BÀI 2 : ĐÀ NẴNG TỪ GIỮA THẾ KỈ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX ( Phần 1 , 2 )

1. Đà Nẵng trong quan hệ với các nước phương Tây và công cuộc bố phòng của nhà Nguyễn.

     Từ cuối thế kỉ XVI, tàu thuyền của các nước phương Tây ( Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha ) thường qua lại Đà Nẵng. Đến giữa thế kỉ XIX, các nước phương Tây muốn mở rộng phạm vi ảnh hưởng, giành giật thị trường, xâm lược thuộc địa... thì Đà Nẵng trở thành cửa ngõ để xâm nhập và chinh phục Việt Nam. Với những quan hệ trước đây với Nguyễn Ánh, nước Pháp đã có nhiều lợi thế so với các đế quốc khác trong quan hệ với triều Nguyễn.

Tiếp đón phái đoàn của Pháp đến Đà Nẵng (1825) ( Nguồn : Võ Văn Dật, Lịch sử Đà Nẵng ( 1306 - 1975 ) NXB Nam Việt 2007, tr.156 )
Đồn Hai trong hệ thống đồn lũy ở ven biển Đà Nẵng (1845) ( Nguồn : baodanang.vn )
     Trong những thập kỉ đầu thế kỉ XIX, nhiều thương thuyền của Pháp ( thường là có những chiến hạm hộ tống ) đến Đà Nẵng để xin giao thương, thực chất là tìm cách thực hiện các nội dung đã được thỏa thuận với Nguyễn Ánh ( nhượng quyền sở hữu cho Pháp cảng Đà Nẵng... ). Nhưng tất cả cố gắng đó đều bị nhà Nguyễn cự tuyệt. Từ đó, thực dân Pháp xúc tiến âm mưu xâm lược Việt Nam bằng vũ lực.

     Về phía nhà Nguyễn, đứng trước những hành động khiêu khích của tư bản Pháp, triều đình càng nhận thức rõ vị trí quan trọng của Đà Nẵng trước âm mưu xâm lược của phương Tây. Triều đình đã tăng cường hệ thống phòng thủ, xây thành lũy, tăng thêm quân, trang bị thêm súng thần công, trang bị cho tàu thuyền các kính thiên lí của châu Âu, tuần phòng nghiêm ngặt. Năm 1840, Minh Mạng đã yêu cầu Tổng đốc Nam - Ngãi Nguyễn Tri Phương : "Đà Nẵng là nơi xung yếu ở biển, tàu Tây dương lui tới ắt phải qua đấy... Nay ngươi có chức trách giữ một địa phương nên thân đến xem hai thành An Hải và Điện Hải và pháo đài Phong Hải, gia tâm chỉnh lí"

Lược đồ hệ thống phòng thủ Đà Nẵng ( Nguồn : Lưu Anh Rô, Đà Nẵng buổi đầu đánh Pháp ( 1858 - 1860 ), NXB Đà Nẵng, 2005 )
              HỆ THỐNG PHÒNG THỦ CỬA BIỂN ĐÀ NẴNG

Đến trước cuộc tấn công xâm lược của liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ ra, hệ thống phòng thủ Đà Nẵng đã được nhà Nguyễn bố trí như sau:
- Bên hữu ngạn sông Hàn, về tận phía Bắc bán đảo Tiên Sa, trên đỉnh núi Sơn Trà có đồn Trấn Dương ; dưới chân núi về phía Tây, dải đất núi khá bằng phẳng nhô ra vùng vịnh ở mũi Mỏ Diều cố pháo đài Phòng Hải ; hơi chếch về phía Bắc ở đây còn có bảo thứ nhất, kế tiếp về phía Nam có bảo thứ hai, thứ ba, thứ tư ( các bảo thứ năm, sáu và bảy năm 1850 bị triệt bỏ ). Và phía Nam là thành An Hải, kế cận thành còn hệ thống đồn của các làng xã An Hải, Mỹ Thị, Hóa Khê, Phước Trường,...

- Bên tả ngạn sông Hàn, từ đỉnh Hải Vân có Hải Vân quan, tiến về phía Đông Nam gần chân đèo có đồn Chân Sảng, pháo đài Định Hải ; xuống dưới chân đèo có tấn Câu Đê và dọc đường thiên lí có Thất trạm. Trung tâm thành phố cảng Đà Nẵng có thành Điện Hải đối diện thành An Hải, sau lưng thành Điện Hải là các đồn Hải Châu, Phước Ninh, Thạc Gián, Nại Hiên, Cẩm Lệ,... như là hệ thống các vệ tinh của thành Điện Hải.

- Giữa hai bờ tả hữu là lòng sông Hàn, một hệ thống tàu thuyền lớn nhỏ được trang bị đầy đủ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, neo đậu theo từng điểm từ cửa tấn Đà Nẵng đến hệ thống các đài đồn dọc theo hai bên bờ tả, hữu sông Hàn.

     Năm 1847, tàu chiến của Pháp nổ súng gây thiệt hại lớn cho thủy quân của nhà Nguyễn tại Đà Nẵng.

     Năm 1856, quân Pháp bắn phá các đồn lũy ở Sơn Trà và đưa quân đổ bộ vào các hải đài, phá phách đồn lũy...

2. Quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn (1802-1884)

     Sau khi lên ngôi, dù bận rất nhiều việc nội trị, nhưng chỉ một năm sau, vào năm Gia Long thứ hai (1803), vua Gia Long đã cho tái lập Đội Hoàng Sa : "Lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biện Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm Đội Hoàng Sa". Đến tháng Giêng năm Ất Hợi (1815), vua Gia Long quyết định " sai Đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ánh ra Hoàng Sa thăm dò đường biển"

     Từ năm 1816. vua Gia Long bắt đầu cử thủy quân cùng với Đội Hoàng Sa ( không còn chỉ giao phó hoàn toàn cho Đội Hoàng Sa) kiểm soát, đo đạc thủy trình ở quần đảo Hoàng Sa : "Năm Bính Tí, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816), vua Gia Long ra lệnh cho thủy quân và Đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình"

Hoạt động đầu tiên của lực lượng thủy quân này đã đánh dấu mốc rất quan trọng về việc tái xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Việc này đã khiến cho những người phương Tây, như Chaigneau hay Giám mục Taberd, khẳng định vua Gia Long đã chính thức xác lập chủ quyền của mình trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa : "Pracel hoặc Paracels ( Cồn Vàng ). Tuy rằng cái quần đảo này không có gì ngoài đá tảng và những cồn lớn, nó hứa hẹn nhiều bất tiện hơn lợi, vua Gia Long đã nghĩ tăng lãnh thổ bằng cách chiếm thêm cái đất buồn bã này. Năm 1816, ông đã tới, long trọng cắm cờ và chính thức giữ chủ quyền các hòn đá này, mà hình như không một ai tranh giành với ông". Thực ra, sự kiện năm 1816 chỉ là mốc thời gian vua Gia Long sử dụng thủy quân, thay vì chỉ có Đội Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình, khai thác sản vật như trước.

     Kể từ đó, nhất là từ thời Minh Mạng, thủy quân liên tục hằng năm thành lệ, đều đặng ra quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khảo sát, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ. Việc đo đạc, vẽ bản đồ của nhà nước, theo pháp lí quốc tế cũng là những bằng chứng cụ thể về việc xác lập thực thi chủ quyền của nhà nước, về việc chiếm hữu thật sự tại các hải đảo. 

Nhiệm vụ đo đạc, vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được quy định rất rõ ràng : "Không cứ đảo nào, cửa biển nào thuyền chạy đến, sẽ đo nơi ấy chiều dài, chiều ngang, bề cao, bề rộng, chu vi bao nhiêu, rà bên bờ nước bể nông hay sâu. Có cát ngắm, đá mỏm hay không, ở tình thế hiểm trở hay bình thường, xem đo tỏ tường vẽ thành đồ bản, chiếu khi khởi hành, từ cửa biển nào ra biển, trông phương hướng nào mà lái đến nơi ấy, cứ theo đường thủy đã đi khấu tính ước được bao nhiêu dặm đường ? lại ở chốn ấy trông vào bờ biển đối thẳng là tỉnh hạt nào ? và phương hướng nào ? ước lượng cách bờ bao nhiêu dặm đường ? Ghi, nói minh bạch trong họa đồ để về trình lên. Lại từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chiếu theo lệ ấy mà làm". Việc đo đạc vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng đã có những kết quả cụ thể. Tấm bản đồ tiêu biểu còn lại đến ngày nay là Đại Nam nhất thống toàn đồ.
Đại Nam nhất thống toàn đồ do vua Minh Mạng cho vẽ vào năm 1838, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lí Trường Sa bằng Chữ Hán
An Nam đại quốc hoạ đồ do Giám mục Jean Louis Taberd vẽ năm 1838, chú dẫn bằng chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Latinh có ghi dòng chữ Paracel seu Cát Vàng (Paracel hoặc là Cát Vàng). Giám mục Jean Louis Taberd là tác giả bài nghiên cứu in trên tạp chí The Journal of the Asiatic Society of Bengal xuất bản tại Calcuta (Ấn Độ) năm 1837. Trong bài viết này ông đã khẳng định : “Paracels, hay Pracel, tức là Hoàng Sa – Cồn Vàng, thuộc về Cochinchina (tức Đàng Trong)”. ( Nguồn : biengioilanhtho.gov.vn )
     Bên cạnh đó, thủy quần còn được triều đình giao nhiệm vụ cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, lập miếu thờ và trồng cay.

Sách Đại Nam thực lục cho biết : "Năm Quý Tị, Minh Mạng thứ 14 (1833) mùa thu, tháng tám vua dụ Bộ Công rằng : Trong hải phận Quảng Ngãi có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường [ mắc cạn ] bị hại. Nay nên dự bị thuyền này, đến sang năm sẽ có người đên đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, tránh khỏi được mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời"

Vào năm Ất Mùi (1835), nhà vua cho dựng miếu thờ, xây bình phong và lập bia chủ quyền. Chính sử triều Nguyễn đã xác nhận sự kiện quan trọng này như sau : " Bãi Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi có một chỗ nổi cồn cát trắng cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía Tây Nam có miếu cổ, có bia khắc bốn chứ " Vạn lí ba bình" ( muôn dặm sống yên ), chu vi 1070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ Đông Tây Nam đều là đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía Bắc giáp với một hòn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 430 trượng, cao 1 trượng 3 thước ngang với cồn cát ( gọi là Bàn Than Thạch ) . Năm ngoái vua toan dựng miếu, lập bia ở chỗ ấy bỗng vì sao không làm được. Đến đây mới sai Cai đội thủy quần là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giảm thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến đấy dựng miếu ( cách tòa miếu cổ 7 trượng ). Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước xây cái bình phong. Mười lăm ngày làm xong rồi về".

Ngoài bia đá được dựng lên cùng miếu thờ để khẳng định chủ quyền theo thông lệ của nhà nước, triều đình Huế còn cho cắm cột mốc bằng gỗ để xác định chủ quyền : "Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ ( cột mốc ) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc". Mỗi năm, cột mốc đều khác rõ niên hiệu, năm, chức vụ, họ tên viên chỉ huy lực lượng thủy quân được phụng mệnh triều đình ra quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đánh dấu để ghi nhớ.

     Các chuyến đi tới quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, đều được tổ chức, chuẩn bị kĩ lưỡng. Chỉ đạo ở trên có Hoàng đế và Bộ Công, thi hành có vệ thủy quân là chính, phối hợp với vệ giám thành, tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Chế độ lương bổng, cấp phát, thưởng phạt đối với quan chức, binh lính và dân binh thực hiện nhiệm vụ tại Hoàng Sa cũng rất nghiêm túc.

Thường dân binh đội Hoàng Sa, Quãng Ngãi, Bình Định luôn được thưởng 1 hay 2 quan tiền và miễn thuế về sự cực khổ vất vả theo đoàn, Còn các viên chỉ huy như Cai đội, Chánh Suất đội, các viên chức tỉnh phái mà chậm trễ đều bị tội. Như, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), Cai đội Phạm Văn Nguyên đi quần đảo Hoàng Sa về chậm trễ, đã có chỉ cho Bộ Công trị tội và bị phạt 80 trượng, xong cho phục chức Cai đội. Các viên Giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến (Tiệm), Nguyễn Văn Hoằng vẽ họa đồ Hoàng Sa chưa chu tất cũng bị phạt mỗi người 80 trượng. Tuy nhiên, cùng đi chuyến này, những người trong dội Hoàng Sa như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh (Sanh) hướng dẫn, đo hải trình vất vả, được thưởng mỗi người 1 quan tiền Phi Long, dân phu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo cũng được thưởng mỗi người 1 quan tiền. Tương tự, năm Minh Mạng thứ 18 (1837), những người được triều đình phái đi như Suất đội Phạm Văn Biện, tỉnh phải đi hướng dẫn như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh do khởi hành chậm trễ, lần này đều bị phạt. Trong khi đó, các dân binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo vẫn được thưởng 2 quan tiền.
Tờ lệnh ban hành ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (Giáp Ngọ – 1834) lệnh Bộ Binh và triều đình cử binh thuyền đi Hoàng Sa mà gia tộc họ Đặng ở Lý Sơn (Quảng Ngãi) gìn giữ hàng trăm năm nay - Ảnh : Hiển Cừ ( Nguồn : thanhnien.com.vn )
     Về quản lí hành chính, các tài liệu chính thức của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục chính biên, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Châu bản triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí đều ghi nhận rõ ràng rằng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về cương vực của Việt Nam.

Chẳng hạn, tháng 8 năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vua Minh Mạng có du cho Bộ Công : "Dải Hoàng Sa trong vùng biển của Quảng Ngãi" ; năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng 17 (1836), Bộ Công tâu lên vua : "Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta là rất hiểm yếu" ; Ngày 20 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), phúc tâu của Bộ Công cũng đã khẳng định : "Hằng năm, vào mùa xuân, theo lệ phái binh thuyền vãng thám Hoàng Sa thuộc hải cương nước nhà" ; Đại Nam nhất thống chí cũng chép : "Phía Đông ( tỉnh Quảng Ngãi ) chạy ngang đến đảo cát : đảo Hoàng Sa, liền với biển xanh"...

     Các tài liệu của triều Nguyễn đều xác nhận Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Quảng Ngãi là đơn bị hành chính luôn trực tiếp can thiệp vào những hoạt động có tính định kì hằng năm của đội dân binh Hoàng Sa, nhằm có phương tiện tốt và đảm bảo những yêu cầu của chính quyền trung ương.

     Như vậy, việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa đã được nhà Nguyễn tổ chức chặt chẽ và thường xuyên hơn trước, dưới nhiều hình thức và biện pháp khác nhau.