3 . Đà Nẵng trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ( từ tháng 12-1946 đến tháng 1-1947 )
Đêm 19-12-1946, Ủy ban quân sự Quảng Nam - Đà Nẵng nhận được lệnh nổ súng tiến công giặc. Lập tức, một hội nghị liên tịch đặc biệt được triệu tập. Hội nghị quyết định đúng 2 giờ sáng ngày 20-12-1946, Đà Nẵng sẽ nổ súng, trọng điểm là đánh chiếm sân bay ; và tiếng súng ở đây cũng là hiệu lệnh cho các nơi khác đồng loạt tiến công địch, chiếm giữ những nơi trọng yếu, không cho quân giặc ứng cứu nhau.
![]() |
Quân Pháp trở lại Đà Nẵng năm 1946 ( Nguồn : ktsdanang.com ) |
Thế trận bố phòng của ta đã được sắp xếp xong. Trung đoàn 96 ém sát các vị trí đóng quân của địch, tạo thành một vòng cánh cung từ trụ sở ủy ban hành chính, nhà bưu điện, Ngã Năm, Cổ Viện Chàm đến khu vực chợ Mới ; Tiểu đoàn 18 chiếm lĩnh khu vực Cầu Vồng, nhà ga, Ngã Ba Cai Lang ; Tiểu đoàn 17 phong tỏa cụm quân địch ở sân bay ; Tiểu đoàn 19 trấn giữ khu vực Nghi An, đèo Hải Vân. Trung đoàn bộ đóng tại ngã tư Yên Khê. Cứ mỗi đại đội chủ lực có một đại đội tự vệ thành phố hoặc dân quân du kích Hòa Vang làm nhiệm vụ phối thuộc chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Các đơn vị vũ trang đã vào vị trí, sẵn sàng chiến đấu. Nhưng đợi mãi tới sáng mà vẫn chưa thấy súng nổ ở phía sân bay. Những lực lượng bí mật ém sát các vị trí đồn bốt giặc đành phải rút ra ngoài. Mãi đến sáng ngày 20-12, khi nghe tiếng pháo và tiếng súng của ta và địch đánh nhau ở Cầu Vồng, đội tự vệ chiến đấu của nhà máy điện liền cho nổ bom phá hoại nhà máy. Lực lượng ở vòng ngoài cho nổ mìn phá sập các cầu Cẩm Lệ, Phong Lệ , Thủy Tú. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Đà Nẵng thực sự bùng nổ vào hồi 8 giờ sáng ngày 20-12-1946.
Tuy kế hoạch đồng loạt nổ súng tiến công giặc không thực hiện được nhưng các đơn vị đã được phân công vẫn bám sát vị trí chiến đấu của mình. Nhiều trận kịch chiến nổ ra ở khu vực ủy ban hành chính thành phố, nhà bưu điện, nhà thông tin tuyên truyền, khu vực Ngã Năm.
Cổ Viện Chàm là nơi quyết chiến của ta. Các chiến sĩ anh dũng chiến đấu suốt ngày đêm, kiên quyết không cho địch tiến vào giải vây sân bay. Các máy bay của quân Pháp không thể cất cánh được. Tiểu đoàn 17 rãi quân từ Cổ Viện Chàm đến bến Đò Xu, chùa Tứ Bang.
Tại khu vực nhà ga, quân địch bị ta chặn đánh dữ dội ngay từ Cầu Vồng ; chúng phải sử dụng một lực lượng lớn, liều chết xông lên, mãi sau chúng mới tiến sát được nhà ga. Cuộc chiến đấu trở nên quyết liệt. Chiến sĩ ta mưu trí đốt khói mù trời rồi xung phong đánh giáp lá cà, đập chai cháy rồi nổ súng làm giả đại liên uy hiếp địch. Có tổ hết đạn, hết cả lựu đạn, xông vào vật lộn với từng tên địch.
Cuộc chiến đấu trong ngày đầu kháng chiến thật là một bức tranh hào hùng muôn hình muôn vẻ. Tự vệ sát cánh cùng bộ đội chiến đấu, tải đạn, tiếp thương, tiếp tế cơm nước. Một lò bánh mì được đắp ngay sau hỏa tuyến để làm bánh mì cung cấp cho chiến sĩ. Đồng bào thì mang cá tươi, cá chiến thính, rồi mắm, muối để quân ta tăng sức chiến đấu.
Sáng ngày thứ hai, kẻ thù dùng pháo hạm bắn phá dữ dội để chặn đường tiếp tế và uy hiếp tinh thần quân dân ta. Ở những vị trí chiến đấu giằng co ngày hôm trước, địch tiếp tục những cuộc tiến công. Tại hai điểm kịch chiến ở nhà ga và chợ Mới, chiến trận diễn ra ác liệt. Tại Cổ Viện Chàm, hai chiến sĩ ta đánh tới viên đạn, quả lựu đạn cuối cùng. Đến cuối ngày, quân địch chiếm được nhiều nơi quan trọng trong thành phố như khu chợ Mới, nhà ga, chợ Cồn.
![]() |
Đà Nẵng trong ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp (20 – 12 – 1946) ( Nguồn : Bảo tàng Khu 5 ) |
Ngày 22-12-1946, ngày thứ ba của cuộc kháng chiến, địch tập trung lực lượng đánh mạnh phía sân bay, quyết giải vậy cho đồng bọn cố thủ ở đây. Tiểu đoàn 17, Tiểu đoàn 19, các đơn vị của Trung đoàn 93 tăng cường và tự vệ chiến đấu của Đà Nẵng, Hòa Vang cùng phối hợp đánh địch liên tục trên suốt tuyến chiến đấu từ chợ Mới đến sân bay. Nhưng với số lượng đông, hỏa lực mạnh, địch đã chọc thủng được trận địa ta và liên lạc được với đồng bọn ở sân bay. Ở phía Tây và phía Bắc sân bay, quân địch cũng dần dần phá được thế bị bao vây
Cả thành phố trở thành một trận tuyến, cả thành phố chung một ý chí. Nam học sinh thì xung phong gia nhập vệ quốc quân, tham gia vào tự vệ chiến đấu. Nữ học sinh thì xung phong vào đội cứu thương, tiếp tế, chăm sóc thương binh. Những đồng bào không thể trực tiếp tham gia chiến đầu thì thực hiện triệt để tản cư, triệt để bất hợp tác với giặc, triệt để " tiêu thổ kháng chiến ". Những vật dụng, tài sản riêng lúc này cũng vứt ra mặt đường làm công sự chiến đấu, thành những chướng ngại vật ngăn bước tiến công của quân thù.
Như vậy, sau ba ngày diễn ra chiến sự ác liệt, địch mới chiếm được nội thành, nhưng suốt một tháng ròng rã chúng bị giam chân trong thành phố, không sao vượt qua sông Cẩm Lệ mà tiến về phí Nam được. Quân dân Đà Nẵng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra từ buổi đầu trước khi bước vào cuộc kháng chiến, đã bảo toàn được lược lượng, đã tạo điều kiện cho nhân dân toàn tỉnh có thời gian chuyển vào tình thế chiến tranh. Đánh giá thắng lợi của một tháng kháng chiến đầu tiên ở Đà Nẵng, ông Phạm Văn Đồng, đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ đã biểu dương : " So sánh với toàn quốc, mặt trận Đà Nẵng được liệt vào hạng đánh mạnh nhất và dẻo dai nhất ". Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, ông còn tặng Trung đoàn 96 lá cờ thêu hai chữ " Giữ vững ".
![]() |
Cờ “Giữ vững” của Chính phủ tặng Trung đoàn 96 về thành tích chiến đấu trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến ( Nguồn : Bảo tàng Đà Nẵng ) |
4. Quần đảo Hoàng Sa từ năm 1884 đến năm 1954
Theo Hiệp ước Patenôtre năm 1884, với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối ngoại, chính quyền thuộc địa Pháp đã có những hành động để củng cổ, khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đề nghị Chính phủ Pháp xây dựng ngọn hải đăng tại Hoàng Sa. Tuy nhiên, việc này chưa thực hiện được vì thiếu kinh phí. Tiếp đó là hàng loạt cuộc khảo sát, nghiên cứu về hải dương học và địa chất được thực hiện ở quần đảo này.
Ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố khẳng định chủ quyền của Pháp trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người Pháp bắt đầu nghiên cứu sâu về quá trình xác lập chủ quyền của " Vương quốc An Nam " tại quần đảo Hoàng Sa.
Qua kết quả nghiên cứu tìm hiểu về Hoàng Sa, Khâm sứ Trung Kì LeFol trong thư ngày 22-1-1929 gửi Toàn quyền Đông Dương cho biết: " Trong tác phẩm Géographie de la Cochinchine ( được dịch ra tiếng Anh và đăng trong tạp chí Journal de la Socitélé Asiatique de Bengale năm 1838 ), đức cha Jean Louis Taberd, giám mục Ismaropolis ( Khâm Mạng tòa thánh tại Nam Kì, Cao Miên và Champa ) đã kể lại việc Hoàng đế Gia Long đã chiếm hữu quần đảo Paracels năm 1816 và long trọng kéo là cờ Nam Kì trên quần đảo. Việc chiếm hữu đó đã được các biên niên sử của chính quyền An Nam hay Đại Nam nhất thống chí, Nam Việt địa dư tập 2 hay Địa dư nước An Nam, xuất bản năm thứ 14 đời Minh Mạng và cuối cùng Đại Nam nhất thống chí quyển 6 hay Địa dư Duy Tân ; các tài liệu trong kho lưu trữ của chính phủ An Nam cung cấp cho ta những chi tiết về hoạt động của Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của Đội Hoàng Sa ".
Và cũng chính trong bức thử kể trên, ông LeFol đã cho biết trước khi mất, ông Thân Trọng Huề, Thượng thư Bộ Binh của triều đình Huế đã viết một văn thư ngày 3-3-1925 khẳng định rằng : " Các đảo nhỏ đó bao giờ cũng là sở hữu của nước An Nam, không có sự tranh cãi trong vấn đề này". ( UBND huyện Hoàng Sa, Kỷ yếu Hoàng Sa, NXB Thông tin và Truyền Thông, 2012, tr.39,30 )
![]() |
Cột hải đăng trên đảo Hoàng Sa (1939) ( Nguồn : hoangsa.daanang.gov.vn ) |
![]() |
Nghi lễ chào cờ của đơn vị lính Bảo an người Việt được cử ra trấn đóng tại đảo Hoàng Sa (1938) ( Nguồn : hoangsa.danang.gov.vn ) |
Ngày 15-6-1932, Toàn quyền Đông dương kí nghị định về việc thiết lập một đại lí ở quần đảo Hoàng Sa thuộc địa phận tỉnh Thừa Thiên. Để hoàn chỉnh và thống nhất về quản lí hành chính, ngày 29-2 năm Bảo Đại thứ 13 ( ngày 30-3-1938 ), Hoàng Sa đế Bảo Đại kí Dụ số 10 sáp nhập các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên.
![]() |
Chỉ dụ số 10 (ngày 29 – 2 – 1938) của vua Bảo Đại sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên ( Nguồn : danangtourism.gov.vn ) |
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít Nhật chiếm đóng và khai thác cả hai quần đảo, tuyên bố sáp nhập các quần đảo trong Biển Đông vào các vùng lãnh thổ của Nhật. Hành động này của Nhật đã bị Chính phủ Pháp gửi công hàm phản đối và bảo lưu các quyền của Pháp tại Hoàng Sa và Trường Sa. Sau chiến tranh, do bại trận, Nhật Bản phải từ bỏ tham vọng đó.
Tháng 9 - 1951, tại Hội nghị San Francisco ( Mĩ ) về việc kí kết Hòa ước với Nhật, ý kiến Nhật thừa nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa ở phía Nam đã bị hội nghị bác bỏ với 48 pheesi chống và 3 phiếu thuận. Cũng tại hội nghị này, thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Bảo Đạo là Trần Văn Hữu long trọng tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Không một đại biểu nào trong Hội nghị có ý kiến gì về Tuyên Bố này.
Ba năm sau Hội nghị San Francisco 1951, Hội nghị Genève 1954 với sự tham dự của 9 quốc gia, gồm 5 cường quốc là Hoa Kì, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc đã xác nhận chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hiệp định Genève kí ngày 21-7-1954.