1 . Dấu tích thời nguyên thủy
Cách đây hàng nghìn năm , Đà Nẵng cũng như phần lớn dải đất ở ven biển miền Trung có chung một nền văn hóa : Văn hóa Sa Huỳnh , một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt Nam. Văn hóa Sa Huỳnh cùng với văn hóa Đông Sơn , văn hóa Óc Eo tạo thành tam giác văn hóa của Việt Nam.
Ở Đà Nẵng , các nhà khảo cổ đã phát hiện tại Bãi Nồm ( bán đảo Sơn Trà - 1992 ) những chiếc rìu đá có vai và nhiều mảnh gốm, một bàn mài bằng đá được xác định ở cuối thời kì đồ đá mới - đầu thời kì đồ kim khí. Ở Vường đình Khuê Bắc ( phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn - 2001 ) và nhiều nơi trên địa bàn thành phố cũng tìm thấy những hiện vật thuộc giai đoạn sơ kì kim khí. Đó là những bằng chứng lịch sử cho thấy Đà nẵng là một vùng đất có lịch sử khá lâu đời và con người đã có mặt ở đây từ rất sớm
![]() |
Khuyên tai 2 đầu thú - đồ trang sức của cư dân văn hóa Sa Huỳnh , thu nhập trong đợt khảo sát khu mộ chum tại Đồi Vàng ( Đại Đồng - Đại Lộc - Quảng Nam ) năm 1979 ( Nguồn : Bảo tàng Đà Nẵng ) |
Di chỉ văn hóa Sa Huỳnh được phát hiện vào năm 1909 khi các nhà khảo cổ tìm thấy một số lượng lớn quan tài bằng chum ( khoảng 200 chiếc ) bên đầm An Khê ( một đầm nước ngọt ở Sa Huỳnh , Đức Phổ , Quảng Ngãi ) . Các nhà khoa học gọi di chỉ khảo cổ đó là Kho chum Sa Huỳnh.
Đặc trưng khảo cổ của văn hóa Sa Huỳnh là ngoài táng thiêu dùm chum gốm làm quan tài , còn có mộ huyệt đất , mộ rải gốm . Đồ tùy táng ngoài đồ gốm , đồ đồng còn có đồ sắt . Điểm nổi trội mang tính chỉ thị đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh là những khuyên tai hình hai đầu thú bằng đá , bằng thủy tinh ; những khuyên tai ba mấu bằng đá quý , bằng thủy tinh ; những đồ trang sức bằng ngọc mã não. Bên cạnh các khu mộ táng còn có những khu di chỉ cư trú với tần văn hóa dày từ 1,5m đến 3m.
![]() |
Khai quật cổ vật tại di chỉ khảo cổ Vườn đình Khuê Bắc tại phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn ( mô hình tái tạo tại Bảo tàng Đà Nẵng ) ( Nguồn : Bảo tàng Đà Nẵng ) |
Tại khuôn viên của Vườn đình Khuê Bắc, các nhà khảo cổ học đã phát hiện và khai quật được những vết tích liên quan đến nơi ở và nơi chôn cất của cư dân thuộc thời kì Tiền Sa Huỳnh, cách đây khoảng 3000 năm và một số hiện vật ở những lớp đất phía trên thuộc thời kì Champa sớm, cách đây gần 200 năm. Di chỉ khảo cổ này được đặt theo tên gọi của đình ( Vườn đình Khuê Bắc )
2 . Đà Nẵng trở thành bộ phận lãnh thổ của Đại Việt
Trên cơ sở văn hóa Sa Huỳnh, ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung và Nam Trung Bộ ngày nay đã hình thành quốc gia cổ Champa. Trong giai đoạn đầu, Đà Nẵng nằm gần trung tâm Vương quốc Champa (kinh đô Sinhapuara - nay thuộc Trà Kiệu - Quảng Nam ). Hiện nay, tại Đà Nẵng còn lưu giữ nhiều vết tích của văn hóa Champa.
![]() |
Tượng Bồ tát Tara |
Ngày 1-10-2012 , Thủ tướng chính phủ quyết định công nhận bảo vật quốc gia (đợt 1) cho 30 hiện vật, nhóm hiện vật. Trong số đó, Đà Nẵng sở hữu 3 hiện vật là tượng Bồ tát Tara, đài thờ Mỹ Sơn E1 và đài thờ Trà Kiệu. Cả 3 hiện vật này đều thuộc về nền văn hóa Champa và đang được lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khác Chăm Đà Nẵng.
1. Tượng Bồ tát Tara là tượng đồng lớn nhất trong phong cách điêu khác Champa được tìm thất từ trước đến nay. Tượng sử dụng kĩ thuật đúc đồng và chạm trổ mang nét đặc trưng, tiêu biểu cho phong cách Đồng Dương. Phong cách này tồn tại từ thế kỉ IX, mang nhiều nét bản địa Champa nhất. Theo các chuyên gia, đây là bức tượng đồng hoàn mĩ nhất, đẹp nhất và có kĩ thuật đúc đồng cao cùng kĩ thuật chạm khắc tinh xảo ; chính vì vậy, mặc dù đã hơn 1000 năm, tượng đồng vẫn không có dấu hiệu oxy hóa ; tiêu biểu cho giai đoạn đầu phong cách Đồng Dương và kĩ thuật đúc đồng.Tượng Bồ tát Tara thể hiện một thân hình phụ nữ đẹp với cổ cao ba ngấn ; bộ ngực tròn đầy với đôi vú hình bán cầu và gần nhau ; mông nở, vai rộng, đôi tay trần khỏe mạnh với đôi bàn tay xòe to đang cầm một vật gì đó bằng ngón cái và ngón trỏ một cách cân xứng và duyên dáng. Điểm độc đáo của tượng Bồ tát Tara là chiếc váy quấn ( ngôn ngữ Chăm gọi là sarong). Chiếc váy quấn có những đường nếp dọc, bó sát mình và buông dài đén mắt cá chân. Chạy dọc chính giữa sarong bên trong là các nếp xếp dọc theo thân. Ngoài chiếc sarong bên trong, tượng Tara còn mặc thêm bên ngoài một chiếc sarong nữa. Chiếc sarong bên ngoài được vận rất khéo: Sau khi đã choàng và ôm sát lấy hai chân ở phía sau, hai mép dưới được kéo chéo lên để vấn vào thành một dạng cạp váy trước bụng ; trong khi các tượng khác cùng phong cách thì thân giữa dài của sarong được vắt ra ngoài.
![]() |
Đài thờ Mỹ Sơn E1 |
2. Đài thờ Mỹ Sơn E1 là đài thờ có niên đại sớm nhất ( thế kỉ VII - VIII ) còn lại nguyên vẹn nhất từ trước đến nay.
Điều độc đáo của đài thờ Mỹ Sơn E1 là trang trí chạm khắc tinh xảo xung quanh chân đài thờ. Các hình ảnh tái diễn sống động về sinh hoạt, các hoạt động trong rừng, chơi nhạc... cho đến nghi thức tế lễ tín ngưỡng của các tu sĩ Ấn Độ giáo ẩn dật, tu tập và hành đạo cách đây 1.300 - 1.400 năm. Đặc biệt, đài thờ đã phản ánh được mối quan hệ giao lưu văn hóa giữa Ấn Độ và Champa trong giai đoạn đầu.
Bố cục và điêu khắc trên đài thờ mang tính biểu tượng. Các trang trí trên đài thờ mô phỏng các trang trí kiến trúc của một ngôi tháp. Mặt trước có bậc cấp, có chạm khắc hình các vòm cửa và trụ cửa thu nhỏ. Ba mặt còn lại, mỗi mặt có một vòm cửa như cửa giả của tháp. ngoài ra còn có trang trí theo môtíp các trụ áp tường. Bản thân một ngôi tháp Chăm Hinđu giáo lại tượng trưng cho một ngọn núi, đỉnh núi là nơi ngự trị của thần linh ; vị thần cao nhất ở đây là thần Siva, với biểu tượng linga đặt ở giữa đài thờ.
3. Đài thờ Trà Kiệu là bước chuyển tiếp của phong cách điêu khắc Champa trong giai đoạn thế kỉ VII - X. Đây là đài thờ duy nhất, đặc trưng cho phong cách điêu khắc Trà Kiệu. Đài thờ là một câu chuyện thần thoại kể về đám cưới của Hoàng tử Rama và Công chúa Sita trong trường ca Ramayana huyền thoại. Với hình tượng yoni và linga phía bên trên, đài thờ Trà Kiệu là đài thờ Champa duy nhất còn lại tương đối nguyên vẹn với phần bệ vuông ở dưới và bệ yoni tròn ở trên. Cấu tạo của bệ yoni với hai thớt tròn đối xứng qua hai lớp cánh sen và một chiếc linga ba tầng đặt trong lòng là một cấu tạo tiêu biểu của tổ hợp yoni-linga trong văn hóa cổ Ấn Độ.
![]() |
Đài thờ Trà Kiệu |
Đây cũng là một bệ thờ tiêu biểu cho loại bệ thờ Champa có phần chạm khắc nhiều nhân vật theo lối kể chuyện với một bố cục hoàn chỉnh và giàu tính nghệ thuật. Các đường nét điêu khắc hết sức tinh tế, sống động và phong phú, đủ để khai quát thành các tiêu chí nền tảng của một phong cách nghệ thuật ( búi tóc, dáng điệu, trang sức, y phục, hoa văn , bố cục, ) tiêu biểu cho một bước phát triển trong nghệ thuật Champa
( Nguồn : Xuân Mai, laodong.com.vn )
( Nguồn : Xuân Mai, laodong.com.vn )